Người Hy Lạp cổ đại đã tạo ra một nền văn minh huy hoàng, nhưng tại sao họ không thể thành lập một quốc gia thống nhất?
Khi các thành bang Hy Lạp cùng tồn tại, Trung Quốc cũng đang trong thời kỳ cận chiến tranh giành quyền bá chủ giữa các hoàng tử.
Trong số hàng trăm thành bang ở Hy Lạp cổ đại, Athens và Sparta luôn là những đơn vị mạnh mẽ nhất. Sức mạnh của hải quân Athens mạnh hơn nhiều so với các thành bang khác, trong khi Sparta chiếm ưu thế với một đội quân hùng hậu. Mặc dù hai thành bang này vô cùng hùng mạnh, nhưng họ vẫn không thể thống nhất bán đảo Hy Lạp.
Tại sao Athens và Sparta không quét sạch các nước khác và thống nhất bán đảo Hy Lạp?
Trong quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, nhiều nền văn minh bắt nguồn từ các con sông lớn – văn minh đại hà (River valley civilization) đã được hình thành. Tuy nhiên, nền văn minh Hy Lạp cổ đại không giống với các nền văn minh đại hà, nó thuộc nền văn minh biển.
Địa hình bán đảo Hy Lạp vô cùng phức tạp với 80% là đồi núi, đồng bằng chỉ chiếm 20%, đất ở đồng bằng nhìn chung cằn cỗi, không có lợi cho phát triển nông nghiệp. Môi trường tự nhiên như vậy không có lợi cho việc hình thành nền văn minh.
Tuy nhiên, bán đảo Hy Lạp ba mặt được bao bọc bởi biển và có nhiều đảo trên biển, thuận lợi cho việc phát triển giao thông vận tải biển, người Hy Lạp cổ đại dựa vào công nghệ hàng hải tiên tiến đã coi Địa Trung Hải là vị trí hoạt động chính của họ. Họ vượt Địa Trung Hải bằng thuyền về phía nam để đến Ai Cập cổ đại, nơi nền văn minh nhân loại đầu tiên được khai sinh, và vượt Địa Trung Hải về phía đông để đến vùng ảnh hưởng của nền văn minh Babylon.
Người Hy Lạp cổ đại đã hấp thụ thành quả của hai nền văn minh lớn thông qua giao thương và trao đổi hàng hải. Vào khoảng thế kỷ 20 trước Công nguyên, nền văn minh Hy Lạp cổ đại ra đời trên đảo Crete thuộc Địa Trung Hải.
Nhiều dãy núi và sông cắt ngang chia cắt bán đảo Hy Lạp thành những vùng đồng bằng tương đối khép kín. Địa hình chia cắt khiến giao thông ở bán đảo rất bất tiện và không có lợi cho giao tiếp của người dân, trong khi vô số đảo ở Địa Trung Hải lại có lợi cho việc phát triển thương mại ở nước ngoài.
Bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên đặc biệt này, hàng trăm thành bang lớn nhỏ đã xuất hiện trên bán đảo Hy Lạp vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Các thành bang này thường tập trung vào một thị trấn và được bao quanh bởi một số khu vực nông thôn, và diện tích nhỏ. Hầu hết các tiểu bang thành phố có diện tích từ 50 – 100 km vuông.
Các bang thành phố có quy mô và dân số khác nhau. Hầu hết các bang chỉ có vài nghìn người. Trong những quốc gia (thị quốc) nhỏ bé này, có hai gã khổng lồ là Athens và Sparta. Athens có diện tích hơn 2.000 km vuông, và Sparta có diện tích 8.400 km vuông, và cả hai đều có dân số hàng trăm nghìn người.
Các thành bang Hy Lạp cổ đại thường sử dụng nông cụ bằng sắt trong nông nghiệp, và việc sử dụng nông cụ bằng sắt đã làm tăng sản lượng sản xuất lương thực. Mô hình kinh tế nông dân nhỏ tự cung tự cấp đáp ứng nhu cầu của thành phố – quốc gia “nước nhỏ, ít dân”.
Hơn nữa, thông qua cải cách, các thành bang đã trao cho công dân trong thành phố một số quyền, chẳng hạn như quyền bầu cử và quyền được tự bầu cử của công dân Athens. Bằng cách này, sự công nhận của công dân đối với thành phố – nhà nước được tăng lên, và các công dân cá nhân được liên kết chặt chẽ với thành phố – nhà nước.
Trong mắt người Hy Lạp cổ đại, họ coi mối quan hệ huyết thống là vô cùng quan trọng, mỗi thành bang Hy Lạp đều có một vị thần bảo trợ riêng, chẳng hạn như Athens, nữ thần Athena.
Không chỉ các quốc gia có niềm tin khác nhau, mà đơn vị tiền tệ và đơn vị đo lường của họ cũng không nhất quán. Cùng với thực tế là nhiều thị quốc quan tâm đến thương mại nước ngoài, có rất ít trao đổi giữa các thành bang. Mặc dù các thị quốc khác nhau có cùng ngôn ngữ, nhưng họ cũng không hình thành được sự đồng thuận giữa “những người cùng chủng tộc”.
Trong số hàng trăm thành bang ở Hy Lạp cổ đại, Athens và Sparta luôn ở vị trí thống trị tuyệt đối. Mặc dù Athens là miền núi và có diện tích đất nhỏ, nhưng vị trí gần Biển Aegean ở phía nam và phía đông rất thuận lợi cho giao thương hàng hải. Để duy trì hoạt động thương mại ở nước ngoài, Athens phát triển mạnh mẽ lực lượng hải quân của mình, lực lượng này mạnh hơn nhiều so với các thành bang khác.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và ngoại thương đã làm cho người Athen tương đối thịnh vượng. Hệ thống dân chủ của Athens cũng thúc đẩy sự xuất hiện của tinh thần cởi mở và tự do, những yếu tố này đã làm cho nền văn hóa của Athens trở nên cực thịnh và trở thành trung tâm giao lưu văn hóa ở Hy Lạp cổ đại.
Tuy nhiên, sức mạnh của hải quân không thể bù đắp được những hạn chế do các chính sách kinh tế mang lại. Việc nhấn mạnh thương mại nước ngoài cũng đã cắt đứt quan hệ kinh tế với các thành phố khác trên bán đảo. Khiếm khuyết này gây khó khăn lớn cho Athens trong việc thống nhất các thành bang. Ngoài ra, quân đội của Athens không đủ mạnh và không có khả năng thống nhất bán đảo.
Tình hình ở Sparta trái ngược với tình hình ở Athens. Sparta nằm ở cực nam của bán đảo, tuy gần biển nhưng Sparta lại chú trọng nhiều hơn đến việc xây dựng quân đội. Các chàng trai Sparta phải trải qua quá trình huấn luyện quân sự nghiêm ngặt ngay từ khi còn nhỏ, và những chàng trai trẻ chính thức trở thành quân nhân khi mới 20 tuổi.
Với sự huấn luyện quân sự nghiêm ngặt, Sparta đã thành lập một đội quân hùng mạnh đã thống trị miền nam Hy Lạp trong nhiều năm.
Sparta cũng thành lập một liên minh quân sự vào năm 546 trước Công nguyên tuy nhiên nó vẫn hơi lỏng lẻo và mặc dù Sparta là một trong những quốc gia lớn nhất và đông dân nhất trong số tất cả các thành bang, nhưng nó lại không có tham vọng thống nhất bán đảo Hy Lạp.
Trong liên minh, mặc dù Sparta có thể triệu tập cuộc họp của tất cả các quốc gia thành viên và đóng vai trò là tổng tư lệnh của lực lượng đồng minh trong chiến tranh, nhưng các quốc gia trong liên minh có các vấn đề nội bộ độc lập và có quyền biểu quyết ngang nhau về các vấn đề hòa bình và chiến tranh liên quan đến toàn bộ liên minh.
Và họ luôn tuân theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số.
Do chú trọng quân sự từ lâu nên văn hóa, giáo dục và kinh tế của Sparta tương đối lạc hậu, khó có thể ảnh hưởng đến các thành bang khác. Những khiếm khuyết cố hữu của Athens và Sparta, cùng với sự bất đồng của các thành bang, khiến con đường thống nhất Hy Lạp cổ đại trở nên vô cùng khó khăn.
Người Hy Lạp cổ đại tôn thờ tự do thành bang và chống lại hệ tư tưởng đế quốc. Trong mắt công dân của các bang khác nhau, sự độc lập của thành phố là trên hết.
Lòng nhiệt thành đối với độc lập và tự do của các thành bang đã khiến người dân ở tất cả các bang cực kỳ ghét người ngoài, và thậm chí coi người bên ngoài thành bang là kẻ thù.
Vì vậy, mặc dù tất cả các bang đều giống nhau về dân tộc và ngôn ngữ, nhưng chúng không thể trở thành một quốc gia thống nhất.
Có thể là vì sống trong thời bình, nên Athens và Sparta không nhận ra rằng nhiều thành bang thực sự là cùng một quốc gia và không có ý thức thống nhất Hy Lạp; tuy nhiên, khi người Ba Tư ngoại lai xâm lược, họ đã không khơi dậy được tiếng gọi của người Hy Lạp cổ đại vì sự thống nhất.
Khi hệ thống thành phố – nhà nước của Hy Lạp đang thịnh vượng, một đế chế khổng lồ – Ba Tư đã xuất hiện ở phía đông của nó.
Người Ba Tư thành lập vương triều Ba Tư vào năm 550 trước Công nguyên, và liên tiếp phát động các cuộc chiến tranh xâm lược các thành bang của Hy Lạp. Năm 490 trước Công nguyên, Darius I của Ba Tư đã gửi một đội quân tấn công các thành bang Hy Lạp một lần nữa.
Những người lính Ba Tư được chia thành hai nhóm, băng qua eo biển Thổ Nhĩ Kỳ để chinh phục Thrace và Macedonia từ bắc xuống nam; và một tấn công về phía tây, chinh phục vùng Ionian (nay là bờ biển phía tây nam của Thổ Nhĩ Kỳ).
Các thị quốc Hy Lạp bị Ba Tư xâm lược cuối cùng đã nhận ra rằng các thành bang nói cùng một ngôn ngữ thực sự thuộc cùng một chủng tộc, và Ba Tư mới là người nước ngoài. Vì vậy, họ quay sang Athens và Sparta để cầu cứu sự giúp đỡ.
Sparta tin rằng vị trí xâm lược của Ba Tư không đe dọa mình. Hơn nữa, Sparta đang cố gắng tìm cách khiến cho Athens và Ba Tư vừa thua và vừa gặt hái lợi ích về họ, nên họ đã không tham gia vào cuộc chiến này.
Athens gửi quân đến hỗ trợ các quốc gia bị xâm lược. Năm 490 trước Công nguyên, quân Ba Tư và Athen gặp nhau tại Đồng bằng Marathon, cuối cùng Athens đã tiêu diệt 6.400 quân Ba Tư với cái giá là 192 người chết. Sau chiến tranh, Ba Tư đã chọn rút lui trước tình hình bất ổn trong nước. Chiến thắng của Athens trong trận chiến này đã làm tăng đáng kể uy tín và ảnh hưởng chính trị của họ với các thành bang.
Ba Tư tạm thời rút quân nhưng vẫn chưa buông bỏ ý định đánh chiếm Hy Lạp, 10 năm sau, nước này lại gửi thêm 300.000 quân và 1.000 tàu chiến đến xâm lược. Trong cuộc chiến này, quân đội Ba Tư mạnh chưa từng thấy, và các quốc gia Hy Lạp cảm thấy bị đe dọa nghiêm trọng.
Để duy trì độc lập và tự do của thành phố – nhà nước, Athens và Sparta đã hợp nhất để thành lập một liên minh chống Ba Tư.
Hai cường quốc đã hợp nhất lợi thế của mình, hải quân và lục quân, và trở thành trụ cột trong cuộc kháng chiến với Ba Tư. Trong trận chiến ở đèo Thermopylae, 300 người Sparta đã dùng mạng sống của mình để đổi lấy gần 20.000 người thương vong ở Ba Tư.
Hải quân Athens đã lợi dụng sự linh hoạt của các tàu chiến để đánh thiệt hại nặng nề cho Hải quân Ba Tư, và hầu hết các tàu chiến của Hải quân Ba Tư đều bị tiêu diệt. Do đó Ba Tư buộc phải rút quân khỏi bán đảo Hy Lạp. Các thành bang Hy Lạp đã giành chiến thắng trong Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư lần thứ hai.
Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư là một ví dụ hoàn hảo về sự hợp tác giữa Athens và Sparta, và đây cũng là thời kỳ hợp tác chưa từng có giữa các thành bang Hy Lạp. Mặc dù chiến tranh đã khiến các quốc gia Hy Lạp nhận ra rằng họ là cùng một chủng tộc, nhưng các yêu cầu về tự do và độc lập của các thành bang vẫn cao hơn nhiều so với hiểu biết của họ về sự thống nhất.
Vì vậy, sau khi chiến thắng trước sức ép của kẻ thù ngoại bang, các bang vẫn tuân thủ nguyên tắc “thành bang là trên hết”, vì độc lập, chủ quyền của thành bang, họ đã kiên quyết chống lại chủ nghĩa bá quyền và tư tưởng đế quốc, cuối cùng dẫn đến nội đấu.
Các thành bang Hy Lạp chỉ đẩy lùi được sự xâm lược của người Ba Tư, nhưng không loại bỏ hoàn toàn mối đe dọa của người Ba Tư. Để tiếp tục chiến đấu với Ba Tư, vào năm 478 trước Công nguyên, hơn 150 thành bang ở phía bắc bán đảo Hy Lạp đã thành lập Liên minh Delian.
Nhờ sức mạnh mạnh mẽ của mình, Athens đã buộc các thành bang tham gia liên minh trở thành chư hầu của mình. Athens chuyển kho bạc của liên minh về nước của mình, đàn áp nghiêm trọng các thành phố đã tuyên bố rút khỏi liên minh và yêu cầu các nước đồng minh sử dụng tiền tệ của Athens, v.v. Liên đoàn Delian trở thành tài sản riêng của Athens, và “Đế chế Athens” bước đầu được hình thành.
Sức mạnh và sự bóc lột của Athens đã gây ra sự bất mãn giữa các thành phố khác. Cuộc tranh chấp giữa tư tưởng đế quốc của Athens và hệ tư tưởng thành bang do Sparta đứng đầu cuối cùng đã phát triển thành một cuộc hỗn chiến giữa các thành bang Hy Lạp.
Vào 450 năm trước, thành phố – nhà nước do Athens và Sparta đứng đầu đã xảy ra xung đột kéo dài 6 năm, cuộc chiến này được gọi là “Chiến tranh Peloponnesian” trong lịch sử. Bởi vì không ai trong hai bên có thể loại bỏ bên kia, và cuối cùng hai phía đã tổ chức một cuộc thương lượng hòa bình.
Tuy nhiên thời kỳ tốt đẹp này không kéo dài được lâu, và chiến tranh lại nổ ra giữa Athens và Sparta vào năm 431 trước Công nguyên. Vào đầu cuộc chiến, Athens và các đồng minh sử dụng ưu thế của hải quân để tấn công Sparta, trong khi Sparta và các đồng minh sử dụng ưu thế của quân đội trên bộ để chống lại.
Thuận lợi và khó khăn của hai bên là rõ ràng, vì vậy, sau nhiều năm chiến tranh bất phân thắng bại, cuộc chiến lại một lần nữa đi vào bế tắc.
Năm 412 trước Công nguyên, Ba Tư chính thức can thiệp vào cuộc chiến, Ba Tư tích cực hỗ trợ Sparta phát triển hải quân. Hải quân Sparta đã đánh bại Hải quân Athen vào năm 405 trước Công nguyên tại eo biển Helles. Trong số 170 tàu chiến của Hải quân Athen tham gia, chỉ có 9 chiếc còn nguyên vẹn.
Năm 404 trước Công nguyên, Athens bị đánh bại và buộc phải giải tán Liên minh Delian. Athens và các thành bang đồng minh của nó chấp nhận sự lãnh đạo của Sparta, và Sparta trở thành bá chủ của toàn bộ Hy Lạp.
Sau chiến tranh, người Sparta thu thập cống phẩm từ các thành phố của Liên minh Delian và thành lập chế độ chính trị mới để thay thế chế độ dân chủ. Chính sách của Sparta một lần nữa dẫn đến các cuộc chiến tranh liên tục ở Hy Lạp và làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh của thành bang Hy Lạp.
Trong trường hợp nội bộ Hy Lạp liên tục đấu đá và sức mạnh của nước này bị suy yếu, Ba Tư, vốn thu được lợi từ những cuộc chiến này đã đóng vai trò là người hòa giải và phân xử.
Năm 387 TCN, các thành bang đã ký một thỏa thuận theo yêu cầu của Ba Tư. Thỏa thuận không chỉ đảm bảo rằng tất cả các thành phố của Hy Lạp được hưởng quyền tự trị, mà còn quy định rằng một khi một thành bang có chiến tranh, Ba Tư có thể can thiệp.
Tất cả các quốc gia Hy Lạp đều chấp nhận sự phân xử của Ba Tư. Cuộc hòa giải này tuyên bố rằng chủ nghĩa tiêu chuẩn thành phố – nhà nước đã đánh bại ý tưởng thống nhất đế quốc, Athens và Sparta đã hoàn toàn rút khỏi nhiệm vụ thống nhất Hy Lạp.
Cuối cùng, trách nhiệm nặng nề của việc thống nhất Hy Lạp đã đổ lên vai những người Macedonia ở phía bắc. Những người Macedonians từ lâu đã ở rìa nền văn hóa Hy Lạp, về kinh tế và văn hóa tương đối lạc hậu, và được người Hy Lạp gọi là “những kẻ man rợ”. Macedonia đã tận dụng sự suy tàn của các thành bang như Athens và Sparta để học hỏi văn hóa Hy Lạp tiên tiến hơn và bắt đầu quá trình “Hy Lạp hóa”.
Dưới sự lãnh đạo của Alexander Đại đế, sau khi Macedonia thống nhất Hy Lạp vào năm 337 trước Công nguyên, Alexander tiếp tục bành trướng ra nước ngoài, sau 10 năm chinh chiến, ông đã thành lập một đế chế khổng lồ trải dài 3 lục địa Á, Âu và Phi.
Tiến hóa càng nhanh thì tuyệt chủng càng nhanh?